Tiếng thở dài

Tháng 4 về trời bắt đầu giao mùa. Hương hoa nhãn gửi theo gió chạm ngõ lùa vội vào ô cửa. Trước cái sân nắng nhuộm hàng cây tỏa hồn thành bóng râm nghiêng thẳm. Nghe thời gian chuyển mình trông khẽ khàng trên những mái ngói xa.

Chuyện của Ánh
Đi về phía cha
Người Cha

Một buổi trưa bình yên giấc ngủ lặng lẽ cũng đến nhanh vội vàng. Sau một buổi sáng người nông dân cặm cụi mệt nhọc phía tít cánh đồng xanh. Tiếng của người thở nhưng tiếng quê hương thở, tiếng khóc oe oe của em bé hồn nhiên trên cánh võng cọt kẹt, bên lời ru của mẹ nhè nhẹ tấu lên một điệu buồn man mác của quê hương. Tiếng chặt củi của người già chẳng ngủ được vì đã quen lao động. Tiếng những chú chim ríu ra ríu rít cứ tiếp nối trên những ngọn cây cao. Đó là tiếng thở của quê hương, đã phả vào hồn bằng những lời hơi ấm, như gió tháng tư mang theo chút nắng hanh rồi thốc vào làn da ràn rạt oi bức ngưng bóng dưới hiên đời. Có một con sông quê mùa nào vẫn còn dòng nước đầy, chúng chảy đi vô tận cuốn theo lục bình như thời gian trôi mãi đến bến đợi tương lai. Chỉ còn bờ quá khứ ở lại rồi mong nhớ con nước cũ quay về. Dòng sông ấy bây giờ, mực nước cũng đã tuột dần lại, còn rõ nguyên dấu vết dưới chiếc cầu bắt qua.

Tháng 4 về chẳng có gì để gọi là mới mẻ, thì cũng nắng gió chim chóc, hương thơm loài hoa nhãn bẽn lẽn như con gái mới gội đầu. Vẫn là nỗi buồn của mẹ hiện lên trong đôi mắt vời vợi của khoảng trời xa xôi. Trong mỗi tháng 4 sang mẹ tựa đầu vào cánh cửa mắt dõi ra phía đầu đường! Mẹ nhớ anh hai, mẹ cứ trông anh về. Đã qua rồi mấy chục cái tháng tư, thuở những mái nhà tranh liêu xiêu đã biến mất từ bao giờ chẳng nhớ, thay vào là vách tường xây dựng nhưng nó cũng đắp lên màu thời gian của rêu phong trầm tích đã qua mấy mươi năm trời chưa một lần sơn phết. Anh hai không về lâu lắm rồi mẹ ơi! Từ thuở tóc đen huyền rồi bây giờ trắng muốt, đôi mắt ngọc sáng ngời nhưng nay giống lớp sương dày đặc của bình minh ngái ngủ. Mắt mờ kèm với chút đãng trí! Với nỗi nhớ con xa mẹ hay tìm các kỷ vật của anh hai để lại ôm ấp rồi khe khẽ thầm thì «đây là cái lược chải tóc, chiếc khăn tay con Tư tặng trước lúc đi xa và mấy lá thư của thằng Chuột mới gửi từ chiến trường về nhà». Tôi cầm lấy tay mẹ, đôi bàn tay gầy guộc, những sợi gân nổi lên như đường đời nhiều ngã rẽ giông tố đã trải qua đến bao tuổi đời.

“Mẹ ơi! Chiếc lược, cây bút, với mấy lá thư đúng là của anh hai gửi về từ chiến khu. Nhưng đã mấy chục năm rồi đâu phải mới hôm qua.”

Mẹ im lặng một hồi, đưa mắt nhìn quanh khắp căn nhà. Chỉ tay lên bàn thờ rồi hỏi thật vu vơ.

“Ai kia?”

“Là anh hai. Cách đây mấy chục năm khi nhận giấy báo tử từ đơn vị gửi về xã, chính mẹ nhận rồi thuê thợ họa ảnh cho anh hai để có mà thờ! Mẹ quên rồi sao? Đó là ngày 17 – 09 – 1972. Còn ảnh kế bên là cha đã hy sinh trong cuộc chiến chống thực dân Pháp.

“Vậy hả! Tao không nhớ gì hết! Thằng Chuột và cha bây đã mất rồi mà.

“Dạ, anh hai đã hy sinh ở trận chiến dịch xuân hè năm 1972 tại Quảng Trị. Còn cha cũng đã mất trong thời kỳ trước đó. Lúc quân Pháp bố ráp như thiên la địa võng trong rừng tràm! Cậu Bảy đã mang xác cha về! Mẹ kể cho con nghe mà bây giờ mẹ đã quên rồi sao?”

Mẹ nói ngắn gọn «Ừa, bây giờ tao mới nhớ» rồi đưa mắt nhìn lên di ảnh của anh hai mà đăm chiêu đựng cả khung trời buồn. Tôi cũng thừa biết rằng bây giờ mẹ mới thực sự không đãng trí. Đôi khi thấy người thanh niên nào có dáng dong dỏng từ đầu ngõ đi xuống mẹ vui mừng chống gậy đứng lên bước ra nói oang oang.

“Thằng Chuột đã về… Thằng Chuột đã về”

Tôi lật đật chạy lên dìu mẹ trở lại bên cái giường.

“Mẹ ơi! Đó không phải là anh hai. Tướng tá giống thôi, chỉ là người đi đường”

Rồi mẹ ngồi xuống thở dài, nhìn về phía di ảnh, gật đầu và nở nụ cười.

“Tao nhớ rồi. Thằng Chuột đã mất tại Quảng Trị.”

Tôi cũng cười với mẹ, rót tách trà thổi vù vù, đưa vào tay rồi nói thầm cùng bà.

“Anh hai đã lớn rồi mà mẹ cứ gọi Chuột này Chuột nọ! Cái tên cúng cơm đó là hồi nhỏ, lớn rồi thì ai mà gọi vậy nữa, lỡ chết danh thì có mà ở giá cho coi.

“Đầu cha bây! Do hồi nhỏ anh em bây khó nuôi nên phải đặt tên vậy. Tao gọi mày Mùi nhưng vẫn có vợ con đấy thôi. Gọi riết cái nó thành ra quen nên khó bỏ lắm. Thôi từ nay về sau tao gọi anh hai mày là Tưởng, còn mày là Nhớ! Chịu chưa? Nếu mẹ có quên thì con cứ nhắc dùm.”

“Con nói vui vậy thôi chứ mẹ gọi sao mà chẳng được. Như trong thư mấy chục năm trước anh hai có nói, khi nào đất nước thống nhất anh sẽ trở về rồi cưới chị Tư Hảo. Thí dụ, hẹn hò yêu đương với chị Tư mà mẹ gọi Chuột này Chuột nọ thì mắc cỡ tới chết mất quá thôi.”

Mẹ cười hiền hòa, rồi cầm chiếc gậy khẽ nhẹ vào cẳng chân kèm với câu cửa miệng quen thuộc khi rầy con nhưng chan chứa tình thương «đầu cha mày». Ba từ “đầu cha mày” của những cha mẹ người Miền Nam để la mắng con cái nó không quá là nặng nề, hay hết sức cay nghiệt mà ngược lại, còn chứa đựng cả sự bao dung hiền hòa nghe thương mến làm sao. Đôi mắt mẹ buồn hiu khi nhắc tới chị Tư Hảo! Mẹ nhìn ra phía bên kia bờ tre rồi đôi mắt rưng rưng! Trong đôi mắt ấy có chứa cả một trời kỷ niệm những năm tháng không bao giờ yên bình, khói lửa giăng kín khắp quê hương, người người loạn lạc, đau xót cảnh đoạn trường, bao mái nhà tranh cháy khét lẹt. Tiếng súng tiếng bom đua nhau nổ vang trời dữ dội, xuống hầm trú ẩn nhắm mắt rồi nguyện cầu cho nhau. Đó là nỗi ám ảnh hãi hùng, không bao giờ quên của những người có mặt trong thời kỳ chinh chiến, nó như một ấn khắc vào ký ức mà chẳng thể xóa nhòa. Nhớ có lần mẹ ngồi bên cái chõng tre hút thuốc với uống trà, thấy những giọt mồ hôi lấm tấm trên gương mặt xương xẩu! Tôi đi tới đưa ngón tay bật quạt gió để mẹ được mát mẻ! Động cơ của máy quạt lâu ngày bị khô nhớt tạo ra tiếng âm thanh è è. Bỗng nhiên mẹ nắm lấy tay rồi nói nhanh vội vàng, gương mặt đầy hốt hoảng lo lắng.

“Thằng Chuột, thằng Mùi đâu! Nhanh lên các con! Đi xuống hầm trú ẩn! Máy bay của địch đang ở đây rất gần. Chúng chuẩn bị thả bom.”

Tôi hiểu dù đã trải qua mấy chục năm nhưng mẹ còn ám ảnh. Lại thêm cái chứng bệnh lúc đãng trí lúc không! Thương mẹ quá tôi thông cảm, ôm bờ vai nói khẽ và dỗ dành.

“Mẹ ơi! Đó là tiếng của cái quạt gió. Bây giờ đã là thời bình rồi, mình không cần phải đào hầm trú ẩn  như mấy chục năm trước nữa”

Mẹ thở dồn dập, đôi tay còn đang run, gương mặt sợ hãi nói tiếng được tiếng mất.

“Hòa bình rồi hả?

“Dạ, hòa bình rồi đúng vào ngày 30 – 04 – 1975, không còn chiến tranh nữa.”

“Sao chưa thấy thằng Chuột về?”

Rồi mẹ cũng bình tĩnh. Mọi chuyện cũng trở lại như lúc ban đầu! Mẹ quét vôi vào lá trầu, bỏ thêm hạt cau rồi đưa vào miệng nhai.

Bây giờ nhìn đôi mắt mẹ rưng rưng khi nhắc tới chị Tư, làm tôi cũng thấy mình ngược lại quá khứ những ký ức xa xôi của đứa trẻ chân đất. Phía hướng bờ tre trước mắt mẹ khi ấy là nhà của chị Tư. Chị Tư Hảo là con bác bảy Khá, năm ấy chị vừa tròn 16, chị đẹp lắm, mắt đen láy với mái tóc chấm vai. Chị và anh hai yêu nhau được 2 năm, khi tình yêu chín rộ chuẩn bị tính chuyện trăm năm vợ chồng thì anh hai lên đường nhập ngũ! Hứa hẹn khi đất nước thanh bình anh sẽ trở về cùng chị nên duyên cau trầu phu thê. Đêm ấy, dưới ánh trăng trước sân, anh chị ngồi bên nhau tâm tình đến khuya lắc khuya lơ! Có khi nghe chị khóc thút thít rồi giọng anh hai lại dỗ dành vang lên. Ngày mai anh lên đường, cũng đồng nghĩa ngày mai anh xa chị! Cuộc chia ly nào cũng đau đáu nghẹn ngào, thấm đẫm vì nước mắt. Rồi anh chị lại im lặng khá lâu, chẳng ai nói được lời nào, khác với ban đầu họ nói về tương lai khi đất nước yên bình bên tiếng cười và có cả tiếng khóc. Tôi len lén đưa mắt qua cái khe hở của tấm vách lá, thấy chị tựa vào vai anh, còn anh thì cứ mãi vuốt tóc chị, đôi dáng ấy hiện rõ mồn một dưới ánh trăng trước nhà. Chị trao cho anh một tấm vải màu trắng, lúc đó tôi chẳng biết nó là thứ gì, mãi đến sau này khi anh hai hy sinh ở chiến trường, những kỷ vật của anh được đồng đội trao lại, thì tôi mới thực sự biết! Đó chính là chiếc khăn tay có thêu tên của anh và chị. Anh nhận lấy rồi đặt nụ hôn vào má, tôi muốn ré lên cười rồi nhảy ra chọc quê vì anh chị đã bị  bắt quả tang. Nhưng nếu làm vậy, thế nào tôi cũng bị mẹ hoặc anh hai cho ăn đòn no nê, vì cái tính nghịch ngợm hay phá phách người lớn, huống gì đã khuya thế này còn chưa ngủ mà rình rập người ta. Rồi bỗng nhiên chị Tư lại lên tiếng.

“Ráng thắng trận rồi trở về nha anh. Tình yêu cứ để sang một bên, việc nước việc nhà mới là quan trọng nhất. Khi đất nước hòa bình em sẽ sanh cho anh một đứa con trai! Giống anh như đúc! Chịu hông.”

Tôi nghe quá mắc cười, nhưng cố gắng nhịn! Rồi mặt tôi bỗng đanh lại khi nghe anh hai nói.

“Thôi, con trai phá phách lắm. Cái tánh giống anh thì còn đỡ, chứ nếu mà tánh giống út Nhớ thì có nước mà lạy luôn! Mới chiều nay mẹ đánh cho mấy roi vì lì lợm. Trai hay gái gì thì anh cũng thương hết, vì đó là con của chúng mình.”

Tôi nói thầm trong bụng chia tay với người yêu để mai lên đường không lo. Bày đặt còn ngồi đó nói xấu. Rồi anh chị lại im lặng như lúc ban đầu, khi thì nghe chị khóc, chị kéo vạt áo bà ba để lau nước mắt. Rồi tiếng nổ của bom vang lên từ xóm trên ầm ầm. Anh và chị Tư cùng hét to lên một lượt.

“Vào hầm trú ẩn bà con ơi, máy bay của quân địch đã tới”

Mẹ cầm ngọn đèn dầu chạy ra trước sân, rồi 4 người nhanh chân vào hầm trú ẩn. Máy bay rời đi! Một lát sau tiếng súng cuối cùng cũng vừa dứt trả lại cái tĩnh lặng như lúc mới ban đầu. Sáng đó anh hai đi lên đường tòng quân, được hơn nửa tháng thì nghe tin chị Tư Hảo gia nhập vào thanh niên xung phong đóng quân ở quê nhà. Chị hy sinh trong một lần máy bay quần thảo không kích ở Sông Dừa của cái xóm giữa! Rồi thời gian sau căn nhà của chị máy bay bị bắn hạ, rơi xuống trúng làm gia đình chị chết sạch hết cả 6 người, căn nhà thành tro tàn cũng biến mất từ ấy. Bây giờ phía trước mắt mẹ chỉ là một khoảng trống mênh mông và những nỗi buồn hiu hắt lại tái hiện  về tâm trí rõ ràng như mới vừa hôm qua. Ôi quê hương mình thời gian ấy điêu tàn trong khói lửa đạn bom, những mái nhà tranh bốc cháy, người la hét tháo chạy, kẻ khóc ngất thảm thiết miệng gọi tên người thân. Khi tiếng súng tạm yên, máy bay ngừng oanh tạc, là những xác người lẫn bị thương nằm la liệt từ đầu làng cuối thôn. Thật hỗn độn hãi hùng, cảnh tượng ấy xa vời lại về trong mắt mẹ, nỗi buồn của chiến tranh, nỗi buồn của mất mát ly biệt. Cứ mỗi độ tháng 4 sang lại chạnh lòng nhớ anh hai, nhớ luôn những anh trai làng đã ra đi không bao giờ trở lại, khác với lời hứa hẹn khi đất nước hòa bình sẽ trở về như trong thư đã nói. Bây giờ đã hòa bình thế bóng dáng các anh đâu khi quê hương còn đợi! Mẹ già vẫn chờ trông?

Có một lần tôi nằm mơ thấy anh hai Tưởng trở về dưới cái bóng sân xưa. Anh mặc đồ lính, trên vai mang theo chiếc ba lô! Anh đứng tần ngần nhìn qua nhà chị Tư Hảo rồi quay lưng đi chẳng nói một lời nào. Giấc mơ ấy giống hệt lúc anh lên đường chuẩn bị đi đánh giặc. Tôi nhớ mãi lúc ấy gương mặt anh rất buồn, anh bước tới cái lu lấy chiếc gáo múc nước uống, rồi nhìn thật lâu cái nhà tranh vách đất, nơi anh đã lớn lên, biết bao nhiêu kỷ niệm tuổi thơ ấu! Anh bước tới ôm tôi, rồi sà vào lòng mẹ. Anh im lặng không nói, mẹ dặn dò đủ điều, nước mắt ngắn dài cứ rơi xuống áo anh. Thuở đó tôi còn bé dại chưa biết gì về chiến tranh loạn lạc, nên thấy những cuộc chia ly vốn dĩ rất thường tình! Sau này lớn bằng anh thì tôi cũng như thế, cũng lên đường nhập ngũ, cầm súng để bảo vệ Tổ Quốc, đó là nghĩa vụ lẫn lý tưởng của người con Việt Nam khi tới tuổi trưởng thành. Anh mở ba lô lấy ra một củ khoai lang cho tôi! Tôi vui mừng cười khúc khích, mặc kệ mẹ và chị Tư đang khóc! Ai buồn sầu kệ ai. Anh lại bước tới hàng rào tre đứng tần ngần nhìn về cái nhà của chị Tư rồi quay lưng đi ra phía ngõ đường và ngoái đầu nhìn lại đến mấy lần liên tiếp! Nghe rõ tiếng chị Tư nói lớn rồi đưa tay vẫy chào.

“Chúc anh lên đường mạnh khỏe, em luôn chờ anh quay trở lại khi đất nước độc lập.”

Nói xong chị Tư ngồi xuống ôm lấy mẹ, rồi hai người cùng khóc. Cái dáng của anh hai đã mất dạng ở phía cuối ngã đường. Đó cũng là của khoai lang cuối cùng mà anh cho tôi! Cũng là lần cuối cùng tôi thấy anh! Sau này mới thấy buồn vì tôi sẽ không bao giờ nhận thêm bất kỳ cái củ khoai nào nữa từ đôi bàn tay anh. Đó cũng là giấc mơ về anh lần đầu tiên tôi thấy khi đất nước đã hoàn toàn độc lập! Tôi giật mình tỉnh giấc và sực nhớ ra anh đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị vào năm mùa hè đỏ lửa 1972. Lẽ nào đó là cái hồn anh trở về? Ôi không! Tôi cười cho cái sự chết nhát của chính mình, đúng là thần hồn nát thần tín! Chẳng qua mỗi độ tháng 4 sang tôi và mẹ nhớ anh, rồi đem thư từ ra đọc suốt nên mơ thấy anh về thế thôi. Hỡi những con đường quê hương, mi có nhớ dấu chân của những anh trai làng năm xưa đã in nát dấu chân! Họ không bao giờ trở lại với mi đâu. Anh Ba Hữu hy sinh ở chiến trường An Lộc, anh Bảy Sơn hy sinh tại Charlie – Kon Tum. Anh Năm Thành hy sinh tại chiến trường Phước Long, và còn vô số các anh chị không bao giờ trở lại với quê hương máu mủ, có người nằm xuống lạnh lẽo mà thân xác chưa được về với đất mẹ yêu thương. Bóng sân ơi, chắc còn nhớ những dấu chân độc hành rất thầm lặng của người trai năm ấy, và cây me tây già cỗi những trưa đi nhổ củ mì anh thường dừng chân ghé lại hóng mát rồi ngân nga câu vọng cổ yêu đời. Nó như di tích sống còn đó suốt mấy mươi năm chẳng phai mà người trai xưa sao chẳng thấy trở lại.

Ôi chiến tranh, bi kịch của thảm họa tàn khốc, bàn đạp cho giá trị độc lập, là máu là nước mắt, là đoạn trường của ly biệt thời loạn lạc. Niềm đau, nỗi khổ, sự nghèo đói lẫn bất hạnh đã làm nấc thang cho hai chữ «hòa bình» cái giá đánh đổi thật khủng khiếp cho độc lập sau này! Dù bên thắng hay bên bại cũng đổ máu như nhau. Những người lính không bao giờ trở lại, gửi nắm xương tàn ở nơi xa lạ mà chẳng phải là quê cha đất tổ. Những bia mộ không tên trở thành vô danh. Những người ra đi khi tuổi xuân còn đang xanh tốt, bỏ cha bỏ mẹ lên đường đánh giặc để giữ gìn non sông. Các anh ngã xuống, máu xương hòa lẫn với đất! Đất nước còn đây! Hồn thiêng các anh còn mãi lời tri ân. Tháng 4 về màu nắng thêm rực rỡ, quê hương đổi mới một chiếc áo huy hoàng, những bà mẹ nhớ con vì lời hứa sẽ trở về khi đất nước toàn thắng. Mẹ mong mẹ chờ, ngồi tựa đầu vào cửa ngó xa xa rồi nước mắt rưng rưng, chỉ nghe mòn mỏi những tiếng thở dài trút vào hiu quạnh với không gian tháng 4. Chiến tranh đã đi qua, nhưng niềm đau và sự mất mát sao cứ còn ở lại dẫu qua bao thời gian! Tháng 4 đến là nỗi buồn của mẹ, nỗi nhớ anh hai cứ theo tiếng thở dài! Mẹ hay đãng trí hay làm trước quên sau, nhưng sao chuyện năm ấy cứ như thước phim quay chậm trong tâm trí mỗi độ tháng tư sang bên những tiếng thở dài.

Truyện ngắn của Quang Nguyễn.

BÌNH LUẬN